Indonesia – Wikipedia tiếng Việt

Đối với các định nghĩa khác, xem Nam Dương.

Tên bản ngữRepublik Indonesia (Tiếng Indonesia)

Tiêu ngữ: Bhinneka Tunggal Ika (Tiếng Java cổ)(Tiếng Việt: "Thống nhất trong đa dạng")Hệ tư tưởng quốc gia: Pancasila[1]

Quốc ca: Indonesia Raya(Tiếng Việt: "Indonesia vĩ đại")Tổng quanThủ đô

và thành phố lớn nhất Jakarta6°10′N 106°49′Đ / 6,167°N 106,817°ĐNgôn ngữ chính thứcTiếng Indonesia

Ngôn ngữ vùngHơn 700 ngôn ngữ[4]Sắc tộcHơn 1.300 nhóm sắc tộc[3]Tôn giáo chính

(2018)[5]86,70% Hồi giáo10,72% Cơ Đốc giáo1,74% Ấn Độ giáo<1% KhácTên dân cưNgười IndonesiaChính trịChính phủCộng hòa lập hiến tổng thống chế đơn nhất

• Tổng thống Joko Widodo

• Phó Tổng thống Ma'ruf Amin

• Chủ tịch Hội đồng Đại diện Nhân dân Puan Maharani

• Chánh án Tòa án Tối cao Muhammad SyarifuddinLập phápHội nghị Hiệp thương Nhân dân (MPR)

• Thượng việnHội đồng Đại diện Khu vực (DPD)

• Hạ việnHội đồng Đại diện Nhân dân (DPR)Lịch sửĐộc lập 

• Tuyên bố 17 tháng 8 năm 1945

• Công nhận 27 tháng 12 năm 1949Địa lýDiện tích  

• Đất liền1.904.569[6] km2 (hạng 14)735.358 mi2

• Mặt nước (%)4,85Dân số 

• Điều tra 2020270.203.917[7] (hạng 4)

• Mật độ141/km2 (hạng 88)365/mi2Kinh tếGDP  (PPP)Ước lượng 2020

• Tổng số3,328,2 tỷ USD (hạng 7)

• Bình quân đầu người12.345 USD (hạng 95)GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2020

• Tổng số1.088.7 tỷ USD (hạng 15)

• Bình quân đầu người4.038 USD (hạng 108)Đơn vị tiền tệRupiah Indonesia (Rp) (IDR)Thông tin khácGini? (2018) 37,8[8]trung bìnhHDI? (2019) 0,718[9]cao · hạng 107Múi giờUTC+7 đến +9 (nhiều múi giờ)Cách ghi ngày thángngày/tháng/nămĐiện thương dụng220 V–50 HzGiao thông bêntráiMã điện thoại+62Mã ISO 3166IDTên miền Internet.id

Indonesia[10], tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik Indonesia) là một đảo quốc nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo" vì lãnh thổ của nước này bao gồm 13.487 hòn đảo[11][12] với dân số ước tính đạt hơn 274,1 triệu người (năm 2020), xếp thứ 4 thế giới và đứng thứ 3 châu Á.

Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn thứ nhất trên thế giới, tuy nhiên khác với Malaysia và Brunei, trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia Hồi giáo giống như các nước Tây Á, Trung Đông, Bắc Phi, Malaysia hay Brunei,...). Indonesia theo thể chế cộng hòa với một bộ máy lập pháp và Tổng thống do dân bầu. Indonesia có biên giới trên đất liền với Papua New Guinea ở đảo New Guinea, Đông Timor ở đảo Timor và Malaysia ở đảo Borneo, ngoài ra vùng biển giáp các nước Singapore,Việt Nam, Philippines, Úc, và lãnh thổ Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ. Thủ đô hiện tại là Jakarta và đây cũng đồng thời là tỉnh lớn nhất, tuy nhiên do sự quá tải dân số đang gây sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, chính phủ Indonesia đang có chủ trương dời đô trong tương lai.

Quần đảo Indonesia từng là một vùng thương mại quan trọng nhất từ thế kỷ VII. Lịch sử Indonesia bắt đầu khi Vương quốc Srivijaya có các hoạt động giao thương với Trung Quốc và Ấn Độ. Những vị vua cai trị địa phương dần tiếp thu văn hóa, tôn giáo và các mô hình quản lý kiểu Ấn Độ từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, tiếp sau đó, các vương quốc Ấn Độ giáo cũng như Phật giáo đã bắt đầu hình thành và phát triển. Indonesia bị ảnh hưởng bởi các cường quốc nước ngoài muốn nhòm ngó các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quần đảo. Các nhà buôn Hồi giáo đã đưa đạo Hồi tới đây, đồng thời, các cường quốc châu Âu cũng bắt đầu tranh giành ảnh hưởng để độc chiếm lĩnh vực thương mại trên các hòn đảo Hương liệu Maluku trong Thời đại Khám phá. Sau hơn ba thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau độc lập, Indonesia tiếp tục rơi vào nhiều biến động lớn như xung đột quyền lực giữa các phe phái chính trị, nạn tham nhũng cũng như một quá trình dân chủ hoá chưa triệt để.

Tuy gồm rất nhiều hòn đảo, Indonesia vẫn có các nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo riêng biệt. Người Java là nhóm sắc tộc đông đúc và có vị thế chính trị lớn nhất còn người Indonesia gốc Hoa là nhóm cộng đồng có sức ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế.

Indonesia là 1 trong 5 quốc gia tham sáng lập ASEAN, thành viên của nhiều tổ chức toàn cầu lớn trong đó nổi bật nhất là G-20. Năm 2020, nền kinh tế Indonesia có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 15 toàn cầu hoặc hạng 4 châu Á và thứ 7 toàn cầu theo GDP sức mua tương đương (ước tính 2020). Tuy nhiên, do dân số quá đông (hơn 274,1 triệu người) nên GDP bình quân đầu người của nước này vẫn ở mức trung bình thấp. Quốc gia này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao và được công nhận là một cường quốc ở khu vực Đông Nam Á cũng như cường quốc bậc trung trên thế giới.

Khẩu hiệu quốc gia của Indonesia, "Bhinneka tunggal ika" - "Thống nhất trong đa dạng" (theo nghĩa đen "nhiều, nhưng là một"), đã thể hiện rõ sự đa dạng hình thành nên quốc gia này. Tuy nhiên, những căng thẳng tôn giáo và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực đe doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Dù có dân số lớn và nhiều vùng dân cư đông đúc, Indonesia vẫn còn nhiều khu vực hoang vu, đây là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học đứng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này cũng rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có diện tích lãnh thổ rộng lớn nhất, dân số đông nhất và là quốc gia duy nhất thuộc G-20 trong số các nước Đông Nam Á, tuy vậy, tình trạng lạc hậu của các vùng nông thôn, tỷ lệ người nghèo cao cùng sự chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập gia tăng đang là những vấn đề, thách thức lớn của xã hội Indonesia hiện đại.Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Chữ Indonesia xuất phát từ từ Indus trong tiếng Latinh, có nghĩa "Ấn Độ", và từ nesos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa "hòn đảo".[13] Tên gọi này đã có từ thế kỷ XVIII, rất lâu trước khi nhà nước Indonesia độc lập hình thành.[14] Năm 1850, George Earl, một nhà phong tục học người Anh, đã đề xuất thuật ngữ Indunesians — và, từ được ông thích hơn, Malayunesians — để chỉ những người dân sống trên "Quần đảo Ấn Độ hay Quần đảo Malaya".[15] Cũng trong bài viết đó, một sinh viên của Earl là James Richardson Logan, đã sử dụng Indonesia như một từ đồng nghĩa với Quần đảo Ấn Độ.[16] Tuy nhiên, các tài liệu của viện hàn lâm Hà Lan viết về Đông Ấn đã lưỡng lự trong việc sử dụng Indonesia. Thay vào đó, họ dùng thuật ngữ Quần đảo Malay (Maleische Archipel); Đông Ấn Hà Lan (Nederlandsch Oost Indië), khái quát chung Indië; phương Đông (de Oost); và thậm chí Insulinde.[17]

Komentar

Postingan populer dari blog ini

KASUS BESAR DI TANGAN JENDERAL HOEGENG

Apa makna dari Hari Kesaktian Pancasila, by drg Wanni

MANA EMAK ????